Toyota Camry là loại xe gia đình cỡ lớn, được sản xuất bởi Toyota tại các nước Mỹ (Georgetown, Kentucky), Úc và Nhật. Tại Mỹ thì Camry là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Honda Accord, và dưới cơ một chút có thể kể Nissan Maxima và Ford Taurus. Vài năm gần đây, có một dòng Camry lên đời khác được bán tại Nhật, và chúng được xuất khẩu dưới tên gọi Lexus ES250, ES300 và ES330.
Tên Camry được giới thiệu đầu tiên vào năm 1980 trên chiếc Toyota Celica Camry, còn cái tên Camry riêng biệt được đưa ra vào năm 1982 dành cho model 1983. Chiếc Camry chủ yếu được sản xuất dưới dạng xe sedan 4 cửa, nhưng đôi khi cũng có mẫu hatchback 5 cửa, wagon thùng dài và thể thao 2 cửa. Một phân nhánh của Camry là chiếc Camry Solara, được bán dưới hai mẫu: 2 cửa và mui xếp. Chiếc Camry đã trãi qua những giai đoạn biến đổi quan trọng trong thiết kế và nâng cấp vào các năm 1987, 1992, 1997 và 2002.
Khác với chiếc Celica Camry nguyên thủy, Toyota Camry luôn được thiết kế là loại xe máy trước, nghĩa là động cơ truyền lực để dẫn động bánh trước. Tuy nhiên cũng có một số model thuộc loại dẫn động 2 cầu (AWD).
Các mẫu Camry thế hệ thứ hai và thứ ba cũng được đổi tên (re-badge) thành Holden Apollo khi bán tại Úc, song song với những chiếc Toyota tương đương. Hiệu xe Holden thì không được thành công lắm, mặc dù chúng được làm từ cùng một xưởng với xe Toyota.
Từ năm 2000, hãng Daihatsu bán ra chiếc Altis được coi như anh em sinh đôi với Camry.
Thị trường
Chiến lược kinh doanh và thị trường của Toyota có truyền thống là rất thận trọng, và nó mang lại kết quả là giành được phần lớn nhất trên biểu đồ của những loại khách hàng mua xe, và đây cũng là những người không có niềm đam mê xe cộ. Camry được coi như một loại xe cơm gạo (bread-and-butter vehicle) mà đối tượng chính của nó như đã nói, chiếm phần lớn của những người mua xe. Mặc dù doanh số của Camry không thành công ấn tượng như chiếc xe nổi tiếng nhất thế giới Toyota Corolla, tuy nhiên nó vẫn bán được rất nhiều và luôn đứng trong hàng ngũ các xe thông dụng nhất tại thị trường mầu mỡ Bắc Mỹ.
Tại ba thị trường bán ra chính thức là Úc, Nhật và Bắc Mỹ, chiếc Camry được tính vào dòng sedan cận cao cấp (sub-luxury), đứng sau chiếc Toyota Avalon và Lexus ES330. Thông thường thì Camry không thể thêm trang thiết bị để qua mặt Avalon hoặc ES330, nhưng một chiếc Corolla thì lại có thể trang bị thêm tận răng để vượt qua Camry loại chuẩn.
Tại Châu Âu thì Camry ít được bán, nhưng chiếc Avensis nhỏ hơn (sản xuất tại UK) thì rất phổ thông. Camry bị coi là nhạt nhẽo và ít được ưa chuộng tại đây, đặc biệt là khi Toyota tự cho mình là đối thủ của BMW 5-series thì người ta càng không thấy có điểm gì nổi trội. Sự vắng mặt của mẫu wagon thùng dài trong thế hệ thứ năm tại những thị trường như New Zealand có nghĩa là Camry sedan và Avensis wagon được bán ra song song. Tại thị trường này thì chiếc Avensis Verso đã bị thất bại.
Tính đến năm 2004, Camry đã được sản xuất tại các nhà máy của Toyota tại Úc, Philippines, Thái, Mỹ và Việt Nam. Nó cũng được làm tại các nhà máy không thuộc Toyota tại Malaysia và Taiwan.
Cạnh tranh hiện thời
Đối thủ truyền kiếp của Camry là Honda Accord thì luôn được xem như có dáng thể thao hơn và luôn nhỉnh hơn về một số trang thiết bị. Thống kê tại Bắc Mỹ về Accord và Camry cho thấy doanh số hai chiếc này thường bằng nhau. Nó cho thấy con số đông các đối tượng mà Camry nhắm đến thì không cần quan tâm đến hiệu suất vận hành cho lắm. Những so sánh mới đây nhất đã đẩy Camry đối mặt với các đối thủ như Nissan Altima, Mitsubishi Galant, Mazda 6 và Chevrolet Malibu. Mặc dù Camry không luôn luôn là kẻ chiến thắng rõ ràng, nhưng nó vẫn là một con gà cứng cựa.
Các thế hệ Camry
Cũng có vài tranh cải về cách đặt thế hệ của Camry theo từng thời kỳ. Hầu hết các nguồn đều ghi thế hệ thứ nhất của Camry bắt đầu năm 1983, một số ít thì nói là 1980 bằng đời của chiếc Toyota Celica Camry. Tài liệu sau đây căn cứ vào cá ý kiến thuộc đa số.
Toyota Celica Camry (1980–1982)
Toyota Celica Camry lần đầu tiên được giới thiệu năm 1980 cho thị trường nội địa Nhật. Xe mang hơi hướm của mẫu Carina và phần đầu của Celica.
Thế hệ I (1982–1986)
Vào năm 1982, Camry trở thành một dòng xe riêng rẽ và được bán ra dưới mẫu sedan hạng trung 4 cửa và 5 cửa. Lượng xuất khẩu rất ít, đa số dành cho thị trường tay lái bên phải (tay lái nghịch). Vào thời điểm này, Camry được xếp trên hai mẫu hạng trung khác của Toyota là Carina và Corona. Một người anh em sinh đôi cũng được giới thiệu lúc đó: Toyota Vista.
Camry chỉ có loại động cơ 4 máy thẳng hàng 2.0 lít, 92hp nhưng chia ra 2 loại hộp số: 5 số tay và 4 số tự động. Đối lập với chiếc Celica Camry dẫn động cầu sau, Toyota Camry là xe dẫn động cầu trước.
Thiết kế của Camry thế hệ I phù hợp với khuynh hướng dạng hộp của những năm đầu 1980. Kích thước và trang bị của xe là những đặc trưng của xe Nhật vào thời đó, xe rẻ tiền, nhỏ nhắn nhưng cứng cáp và cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ to lớn của Mỹ.
Thế hệ II (1986–1991)
Thế hệ thứ hai giới thiệu vào nam 1986, có thêm mẫu wagon nhưng lại bỏ đi mẫu hatchback. Nó vẫn được coi là xe hạng trung vào lúc này. Vào năm 1988, lần đầu tiên có thêm mẫu dẫn động 2 cầu (All-Trac) động cơ V6 2.5L, 153hp. Động cơ V6 này có tính năng trục cam đôi trên nắp máy (DOHC), gần giống như loại 4 xy-lanh 115hp.
Năm 1991, hệ thống chống bó phanh (ABS) xuất hiện trên các mẫu V6, LE và wagon.
Nhà máy tại Kentucky bắt đầu sản xuất Camry vào năm 1988, với ba model của thế hệ II là Camry trơn (chuẩn), Camry DX và Camry LE. Động cơ 2.5L và khung gầm của Camry cũng được dùng cho dòng cao cấp Lexus ES250. Chiếc ES250 là một đặc trưng cho loại Camry hardtop (loại mui cứng không có thanh chống giữa 2 cửa sổ) tại thị trường Nhật.
Vào năm 1991, hệ thống chống bó phanh (ABS) được trang bị cho các mẫu V6, LE và wagon.
Camry Thế hệ II thì đặc biệt rất là phổ thông tại Mỹ và ta có thể thấy chúng trên mọi nẻo đường.
Thế hệ III (1991–1996)
Camry Thế hệ III được bán tại Nhật năm 1990 và ở Mỹ thuộc vào đời 1992. Nó được coi như là mẫu đầu tiên Toyota để tham gia vào dòng sedan loại lớn, loại mà Toyota gọi là "world-sized". Đây là cột mốc đánh dấu sự chuyển tiếp của Camry từ một loại xe 4 cửa rẻ tiền lên loại sedan lớn hơn và sang hơn.
Tuy vậy, chiếc Camry 1992 tại Nhật thì lại khác. Các cánh cửa và cản trước sau thì giống với loại xuất khẩu nhưng bề ngang thì bị giới hạn trong kích thước 1.700mm để phù hợp với quy định về thuế trong nước. Mẫu xuất khẩu to ngang hơn thì tại Nhật lại có tên Toyota Specter.
Tại Mỹ, hộp số tự động trở nên lựa chọn duy nhất cho tất cả các model, nhưng vẫn có bán loại thể thao 5 số tay của Camry chuẩn đời trước. Cả hai loại động cơ 4 máy và 6 máy đều được nâng cấp về dung tích và mã lực: loại 4 máy 2.2L và 130hp, loại V6 3.0L và 185hp. Ngoài dòng DX (còn gọi là Delux) và LE, đời 1992 còn có thêm dòng cao cấp XLE và dòng thể thao SE, mà được cho là để cạnh tranh với chiếc Nissan Maxima SE.
Vào năm 1944, Toyota giới thiệu mẫu Camry 2 cửa với kiểu dáng giống như loại 4 cửa. Mẫu này bị loại bỏ trong thế hệ kế tiếp, nhưng sau đó lại được thay thế bởi Camry Solara.
Cùng năm đó, tại thị trường nội địa Nhật có hai mẫu mới (ngang 1.700mm) của Camry và Vista, với cùng một khung gầm nhưng thân vỏ khác nhau..
Camry Thế hệ III được nằm trong bảng "10 xe tốt nhất" của tạp chí Car and Driver trong các năm 1992 và 1993.
Thế hệ IV (1996–2001)
Camry Thế hệ IV được giới thiệu tại Nhật vào Tháng 12-1996. Vẫn tồn tại hai mẫu sedan và wagon (tại Nhật có tên là Camry Gracia), còn tại Mỹ thì chỉ có loại sedan bắt đầu từ đời 1998. Model 2000 thì có cải tiến chút ít ở đầu và đuôi nhưng cũng không khác model 1999 là mấy. Mẫu Specter chấm dứt tại Nhật vì Camry được nâng chiều ngang lên 1.795mm.
Chiếc Lexus ES300 lại một lần nữa xài chung khung gầm với Camry.
Năm 1999 xuất hiện mẫu Camry Solara loại 2 cửa loại và mui xếp. Khác với loại Camry 2 cửa Thế hệ II, Camry Solara lần này bắt đầu bằng mẫu 4 cửa.
Đời 1988 tại Mỹ, dòng SE thể thao cũ bị loại bỏ, còn dòng chuẩn đổi thành Camry CE. Cả hai dòng LE và XLE vẫn được tiếp nối. Mẫu Solara thì có hai loại SE và SLE, để tương ứng với LE và XLE của dòng sedan. Loại XLE thì có động cơ 4 máy và V6, trong khi Solara SLE thì chỉ có máy V6.
Mã lực được nâng lên chút đỉnh, loại 4 máy 5S-FE 2.2L là 133hp và loại V6 1MZ-FE là 194hp. Hộp số tay chỉ còn gắn cho dòng CE và các model Solara.
Chiếc Camry đầu tiên được bán ra dưới tên Daihatsu. Đó là chiếc Diahatsu Altis, cũng được coi là một loại Camry xuất khẩu.
Camry V6 lại được nằm trong bảng "10 xe tốt nhất" năm 1997 của tạp chí Car and Driver.
Thế hệ V (2001–đến nay)
Tháng 9-2001, giới thiệu chiếc Camry mới nhất trong dòng sedan cỡ lớn, nhưng lần này không có mẫu wagon. Mẫu này được bán tại hầu hết các thị trường xuất khẩu và tại Mỹ là đời 2002.
Kiểu dáng Camry Thế hệ V cũng hao hao Thế hệ IV. Ca-pô trước hơi ngắn lại làm cho khoang hành khách rộng thêm ra, đó là một trong những kỹ thuật thiết kế của các xe loại nhỏ. So với Thế hệ trước thì nó cao hơn 63mm và chiều dài cơ sở dài hơn 50mm.
Đời 2002 tại Mỹ không có loại CE, nhưng loại thể thao SE được tái xuất hiện. Cả hai loại LE và SE đều có động cơ 4 máy 2.3L 163hp đi kèm với hộp số tay, còn các loại khác gắn động cơ V6 thì là số tự động.
Tại Úc thì đời 2002 phân ra 5 loại khác nhau: Altise, Ateva, Sportivo, Azura và Grand. Ba model đầu thì đều có động cơ hoặc 4 máy hoặc V6. Hai model sau chỉ gắn động cơ V6. Chiếc Camry Sportivo thì giống y hệt như Camry SE tại Mỹ.
Có một chút thay đổi về phần mỹ thuật cho đời 2004 trên toàn thế giới.
Daihatsu tiếp tục sản xuất người anh em sinh đôi Altis chỉ cho thị trường Nhật.
Theo kế hoạch, Toyota sẽ sản xuất Camry Hybrid (động cơ đôi xăng-điện) trong năm 2006
0 nhận xét:
Đăng nhận xét